Minh Anh (viet.RFI.fr)
Hè 03 tháng Sáu năm 1929, trên chuyến phà băng qua một nhánh sông Mêkông để đi về Sài Gòn, một nữ sinh trung học người Pháp tình cờ làm quen với một chàng công tử người Việt gốc Hoa, sống tại Sa Đéc. Người sau đó đã trở thành tình nhân của cô.
Mối quan hệ tình cảm này đã ghi lại một dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn thiếu nữ và sau này trở thành nguồn cảm hứng cho ba tác phẩm văn học, làm nên tên tuổi nữ sĩ Pháp Marguerite Duras. Trong đó, tác phẩm “L’amant” (Người tình) đã đoạt giải Goncourt năm 1984, giải thưởng văn học danh giá của Pháp. Tác phẩm được đạo diễn Jean-Jacques Annaud chuyển thể thành phim cùng tên vào năm 1990.
Trong loạt bài mùa hè có tiêu đề « Những nhà văn Viễn Đông » của nhật báo Le Monde số ra trung tuần tháng Tám này, Bruno Philips, tác giả bài viết « ‘Marguerite Duras ở Sa Đéc’ : Những mối quan hệ nguy hiểm » đã có dịp quay lại vùng đất Nam Bộ năm xưa, tìm kiếm những vết tích còn đọng lại như để hiểu rõ thực tại trong toàn bộ không gian hư ảo của Duras. Cái « thực tại » mà Duras suốt cả cuộc đời mình luôn tìm cách chối bỏ. Và cả nghiền ngẫm nữa.
« Tôi phải nói gì với bạn đây, khi ấy tôi mười lăm tuổi rưỡi. Đó là chuyến phà băng qua sông Mêkông », câu mở đầu nổi tiếng của tác phẩm. Chính trên chuyến phà đó, mọi chuyện đã bắt đầu.
Con phà năm xưa giờ không còn nữa. Thấp thoáng xa xa là hình bóng cây cầu hiện đại, được khánh thành vào năm 2000, bắc qua một nhánh sông Mêkông mà người dân bản xứ gọi là « Cửu Long » tức chín con rồng. Dấu ấn còn lại của con phà năm xưa giờ chỉ là chiếc cầu kè bê-tông vẫn còn nằm trơ ra phía sông. Tuy cảnh vật có thay đổi chút với thời gian, nhưng không gian của Duras như vẫn còn đọng lại đó : cũng dòng sông nặng trĩu phù sa, cuồn cuộn chảy xiết, lu mờ dưới làn mưa không ngớt.
Đông Dương: điểm xuất phát cho sự nghiệp của Marguerite Duras
Phông cảnh nền đó đã được Jean-Jacques Anneaud tái hiện một cách trung thành trong bộ phim cùng tên, chuyển thể từ tác phẩm « Người tình » của Marguerite Duras. Người xem tại Việt Nam chắc cũng không khỏi ngỡ ngàng trước ống kính tài tình của đạo diễn, đưa một góc sông nước Hậu Giang hiện đại ngày nay trở lại với không gian Đông Dương những thập niên 20 của thế kỷ trước: một miền đất đậm chất Nam Bộ mộc mạc, giản dị của một thời còn là thuộc địa.
|
Đây cũng chính là điểm xuất phát cho sự nghiệp văn chương của nữ sĩ Pháp Duras. Vùng đất Nam Bộ đó như là một phần xương thịt trong con người bà. Khi trả lời phỏng vấn nữ phóng viên người Ý, Leopoldina Pallota della Torre, Duras thổ lộ “Đôi khi tôi cũng nghĩ rằng sự nghiệp viết lách của tôi bắt đầu từ đó, giữa những cánh đồng, những khu rừng, và trong sự hiu quạnh. Có một đứa trẻ da trắng, gầy còm và lạc lõng mà người đó chính là tôi, giống người Việt hơn là Pháp, lúc nào cũng chân đất, không biết giờ giấc, không biết cách sống, thích ngắm chiều hoàng hôn trải dài trên sông, với khuôn mặt bị rám nắng”.
Trở lại với chuyến phà nối đôi bờ một nhánh sông Mêkông, nơi diễn ra buổi đầu gặp gỡ của đôi tình nhân. Có thể nói buổi gặp định mệnh đó chính là cột mốc quan trọng cho cả cuộc đời nữ sĩ. Nó ám ảnh, đeo đuổi dai dẳng trong tâm hồn Duras, đến nỗi mà trong vòng bốn thập niên liên tiếp bà có đến những ba phiên bản khác nhau cho cuộc phiêu lưu tình cảm đó: Un barrage contre le Pacifique (tạm dịch là Đập chắn Thái Bình Dương – 1950), L’Amant (Người tình – 1984, giải Goncourt cùng năm), cho đến L’Amant de la Chine du Nord (Người tình Hoa Bắc – 1991).
Nhân vật nam chính trên chuyến phà được bà tái hiện dưới ba nhân dạng khác nhau : Ông « Jo » da trắng trong tác phẩm đầu cho đến « công tử người Hoa », tình nhân không tên trong tác phẩm “Người tình”. Riêng đến tác phẩm thứ ba “Người tình Hoa Bắc”, nhân vật huyền thoại lại được phác họa dưới một góc cạnh rất là điện ảnh. Cũng chính là anh chàng đó, nhưng lại điển trai hơn và cao to hơn so với nhân vật chính trong L’Amant : một kẻ nghiện ngập, nhu nhược và biếng nhác. Và đây cũng chính là con người thật ở ngoài đời.
Theo nhà báo Laure Adler, người viết tiểu sử Marguerite Duras, nhân vật “công tử người Hoa” ngoài đời thật sự ra không mấy điển trai như nhân vật Léo trong tác phẩm thứ ba hay như trên phim. Anh ta thật sự rất giàu và rất lịch lãm, nhưng gương mặt xấu xí, bị hủy hoại vì căn bệnh đậu mùa. Thực tế này quả thật quá khác xa với những gì độc giả tưởng tượng, hay chí ít ra như những gì ta đã xem qua trong phim của Jean Jacques Annaud: một anh chàng cao to, gương mặt điển trai, lịch lãm với những cảnh ái ân nồng cháy, khát vọng nhục dục lồng trong một không gian lãng mạn đầy huyễn hoặc. Đây cũng chính là điểm bất đồng giữa nữ sĩ với đạo diễn. Annaud thì nghĩ đến việc khai thác câu chuyện tình giữa một cô gái Pháp mới lớn đầy khêu gợi với người tình gốc Hoa điển trai, trên một phông nền thuộc địa lãng mạn.
Nhưng đối với Marguerite Duras, cả « Người tình » lẫn hai tác phẩm còn lại là những quyển tự truyện về chính cuộc đời bà, về tuổi thơ và tuổi trẻ của bà tại cựu thuộc địa Đông Dương, nơi bà được sinh ra và lớn lên, dù rằng cho đến lúc gần cuối đời bà cũng không bao giờ chịu nhìn nhận. Bà nhắc đi nhắc lại là « Người tình » chỉ là một câu chuyện giả tưởng. Cuộc phiêu lưu tình ái đó không bao giờ tồn tại. Sự phủ nhận của nữ sĩ mãnh liệt đến mức bà chối bỏ cả tuyệt tác của mình một năm sau khi xuất bản. Duras nói rằng: “ Người tình, chỉ là một quyển tiểu thuyết ba xu, rẻ tiền. Tôi viết nó trong một lúc say xỉn mà thôi”. Bởi vì Duras nghĩ rằng “chuyện đời bà chẳng có gì đáng để mà kể”.
Chính vì vậy, trong suốt tác phẩm « Người tình », các nhân vật chính là những kẻ vô danh, không tên gọi, được hiện ra dưới những cách gọi « cô gái » và « công tử người Hoa ». Trên chuyến phà ngày ấy, đưa « cô bé » đi về Sài Gòn, còn có « anh chàng người Hoa ». « Cô bé » đó không ai khác chính là nữ sĩ, khi ấy cũng vừa được 15 tuổi. Còn « chàng công tử người Hoa », ngoài đời tên thật là Huỳnh Thủy Lê, lúc ấy được 27 tuổi, là con trai của một điền chủ gốc Hoa sống tại Sa Đéc. Vào thời điểm đó, Marguerite Duras vừa đi thăm mẹ ở Sa Đéc về.
Ta không khỏi tự hỏi vì sao Marguerite Duras lại có những thái độ tiêu cực đối với đứa con đẻ tinh thần của mình đến như vậy. Bà đã mất tổng cộng bốn thập niên để mà thêu dệt nên ba tuyệt tác, trong đó tác phẩm « Người tình » đã đoạt giải Goncourt năm 1984, một giải thưởng văn học cao quý của Pháp, đưa tên tuổi của bà ra toàn thế giới. Tác phẩm « Người tình » đã được dịch ra 35 thứ tiếng và hơn 2,5 triệu bản đã được bán chạy.
Marguerite Duras: hiện thân của sự nổi loạn
Theo Bruno Philips, có lẽ chính vì tuổi thơ buồn tủi, đầy khó khăn, cô độc và thiếu vắng tình thương của gia đình đã dẫn nữ sĩ có những hành động « chối bỏ » kỳ quặc như thế. Sinh ngày 04/04/1914, tại Gia Định (tên cũ của Sài Gòn), Marguerite Donnadieu, tên thật của nữ sĩ, là đứa con gái duy nhất trong một gia đình có ba anh em. Thế nhưng, nữ sĩ lại sớm chịu cảnh mồ côi cha khi vừa được bốn tuổi. Mẹ bà một giáo viên tiểu học, trải qua nhiều nhiệm sở Hà Nội, Phnom Penh, Vĩnh Long rồi sau này là hiệu trưởng một trường nữ sinh tại Sa Đéc (giờ là trường Trưng Vương). Tuổi thơ của nữ sĩ hầu như trải qua tại Đông Dương, nhưng giữa sự hung bạo của người anh cả, sự lạnh lùng và những cơn điên loạn của bà mẹ bởi nỗi ám ảnh thiếu thốn tiền nong.
|
Chính vì vậy, Duras cũng có lần nhìn nhận rằng lúc ban đầu khi bà đến với “chàng công tử” triệu phú người Hoa đó cũng chỉ vì tiền. Trong tác phẩm “Người tình”, Duras có nói rằng bà không bao giờ kể cho mẹ bà biết mối quan hệ vụng trộm này. Nữ sĩ nhận thức được rằng, đấy sẽ là một điều sỉ nhục cho gia đình, cho mẹ bà. Nhưng với bản năng của người mẹ, nên có lẽ mẫu thân nữ sĩ cũng có những nghi ngờ.
Đôi lúc bà vừa đánh đập cô con gái vừa gào thét « con gái bà là một con điếm, bà sẽ vứt cô ra ngoài, bà ước gì thấy cô chết bờ chết bụi và không ai muốn thấy cô nữa, cô ấy đã bị ô uế thanh danh, thà làm con chó còn hơn ». Trên thực tế, chưa bao giờ Duras được hưởng chút tình thương yêu của mẹ. Mọi tình thương và kỳ vọng mẹ bà đều dành trọn cho người anh cả, một kẻ hư hỏng, thô bạo, bê tha cờ bạc rượu chè, nghiện ngập, suốt ngày chỉ biết hành hung hai đứa em của mình.
Marguerite Duras : viết sách là để giải bày những điều thầm kín
Cuộc đời của Marguerite hầu như tan vỡ, sống không chủ đích. Cuộc phiêu lưu tình ái đó cũng phản ảnh phần nào tâm trạng nổi loạn của bà như để bù đắp lại khoảng trống tình thương trong tâm hồn. Tuy nhiên, cho dù cuộc tình đó nó có thật hay không, điều đó đối với nữ sĩ cũng không có chút tầm quan trọng nào. Nó chỉ là một công cụ để Duras có dịp khuất lấp sự thiếu thốn về tinh thần và vật chất.
Ngay từ đầu tiểu thuyết « Người tình », Duras đã viết rằng : « Sử dụng chuyện viết lách không chỉ nhằm tái hiện sự việc dưới dạng huyền thoại mà còn là cách để tiếp cận với nhiều điều khác nữa, vẫn còn ẩn náu trong sâu thẳm tâm hồn mù quáng […] ». Đúng như là lời giải thích của nhà văn Laure Adler, người viết tiểu sử về Marguerite Duras, tham vọng của tác phẩm thể hiện « ao ước được giải bày hơn là để mà tự kể về mình ».
Về phần nhân vật « người tình », các nhân chứng hiếm hoi mà Bruno Philips, phóng viên báo Le Monde may mắn gặp được tại Sa Đéc cho biết sau khi chia tay với người bạn tình Pháp, Huỳnh Thủy Lê phải nghe lời cha lấy một cô gái rất xinh đẹp, con của một điền chủ giàu có khác tại Tiền Giang, nhằm cứu rỗi kinh tế gia đình do làm ăn thất bại. “Người tình gốc Hoa” của bà sau khi đám cưới còn sống chung lén lút với người em vợ.
Sau thống nhất, Huỳnh Thủy Lê đã cùng gia đình di tản sang Mỹ. Vốn là người rất trọng truyền thống, trước khi mất ông có tâm nguyện muốn được chôn cất tại quê nhà Sa Đéc. Một người cháu của Huỳnh Thủy Lê buồn tủi cho tác giả Bruno Philips biết, các hậu thế trực tiếp của Huỳnh Thủy Lê hiện đều có cuộc sống giàu sang đây đó tại Mỹ hay Pháp, nhưng để ông mồ côi mả quạnh tại Sa Đéc, do vài đứa cháu nghèo khổ còn sót lại trông coi.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Huỳnh Thủy Lê / Nhà Cổ
http://vi.wikipedia.org/wiki/Marguerite_Duras